Đốt lòng nhau cứ gì phải lửa

|

Thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trường Sơn là tựu trung của mọi tựu trung. Cái gì ở nơi khác có, Trường Sơn cũng có. Cái gì nơi khác không có, Trường Sơn cũng có. Trường Sơn đã cho Phạm Tiến Duật một kho báu. Ngược lại Phạm Tiến Duật đã bắt trúng mạch sống của Trường Sơn đế làm sáng tỏ một huyền thoại mới trong thời đại Hồ Chí Minh. Mỗi chiến sĩ Trường Sơn, rộng hơn, cả dân tộc thời ấy đều soi thấy mình trong câu thơ của ông.

PHẠM TIẾN DUẬT (1941-2007) quê Phú Thọ Đất Tổ, nơi phát sinh và lưu giữ nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong đó có truyền thống văn học. Ông là thế hệ sinh ra cùng Cách mạng Tháng Tám, có tuổi thơ trong kháng chiến chống Pháp; sống và cống hiến vẻ vang trong thời đại chống Mỹ.

Phạm Tiến Duật là trí thức XHCN, người chiến sĩ và nhà thơ lớn.

Tốt nghiệp đại học năm 1965, Phạm Tiến Duật nhập ngũ. Đất nước cần thầy giáo, cần xây dựng nhưng lúc này gấp hơn là cần đánh giặc, cần người cầm súng. Đó là lớp sinh viên đầu tiên vào bộ đội chống Mỹ, cứu nước. Và rất giản dị, rất bình đẳng, anh sinh viên cũng như người nông dân khoác áo lính, đều là binh nhì. Thoạt đầu, Phạm Tiến Duật là pháo thủ cao xạ pháo; sau đó là lính lái xe thuộc Đoàn 559 Bộ đội Trường Sơn.

Quãng đời ở Trường Sơn là quãng đời đẹp nhất của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Chỉ khi ở đây, ông mới thấu hiểu và ghi nhận được vẻ đẹp và sức mạnh của thời đại mình qua hình ảnh rất cụ thể của người chiến sĩ lái xe, cô TNXP, vị tư lệnh, người mẹ Pa Cô, Vân Kiều... Phạm Tiến Duật có thơ in từ năm 1962 nhưng ngay cả chính tác giả cũng không muốn nhớ đến nó. Đến Lửa đèn, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em, cô Thanh niên xung phong, Nhớ là chùm bài được Giải nhất cuộc thi thơ của Báo Văn nghệ năm 1969-1970, nhà thơ Phạm Tiến Duật mới được "sinh ra". Ông là thế hệ đầu, là nhà thơ độc đáo, xuất sắc nhất trong thơ chống Mỹ.

Trong Kỷ yếu của Hội Nhà văn Việt Nam, Phạm Tiến Duật viết: "Lê Đình Kỵ đã gọi đúng về tôi. Nếu không có cuộc sống với những con người đa dạng ồn ào bao quanh với xô bồ chi tiết trôi chảy từng phút, từng giờ, thì hình như tôi không có thơ". Qua đây, ta thấy tính xác thực, hơn thế là tính hiện thực trong thơ Phạm Tiến Duật. Ông là "họa sĩ" của Đường Trường Sơn; là thư ký trung thành chép sử thời đại. Giá trị sử liệu trong thơ Phạm Tiến Duật rất lớn.

"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" viết về chính anh và tiểu đội của anh, chân thực đến từng chi tiết: Không có kính, không phải vì xe không có kính/Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.../Không có kính, ừ thì có bụi/ Bụi phun tóc trắng như người già/ Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

"Gửi em, cô Thanh niên xung phong" viết ở Hà Tĩnh năm 1968:

Cạnh giếng nước có bom từ trường/ Em không rửa, ngủ ngày chân lấm/Ngày em phá nhiều bom nổ chậm/ Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà. Cô gái tinh nghịch, ở Thạch Kim nói là Thạch Nhọn, đêm về hay nói mớ ấy có nguyên mẫu, đó là O Nhị, đã có mặt tại Hà Nội năm 2007 lúc tác giả lâm trọng bệnh.

Nhưng nói thơ Phạm Tiến Duật giàu tư liệu cuộc sống chỉ mới đúng một nửa. Nói cho chính xác, thơ Phạm Tiến Duật là kết tinh vẻ đẹp của thực tế cuộc sống, sự hàm súc và đột khởi của trí tuệ và sự chân thành, lắng sâu của tình cảm. Không nhiều nhà thơ gồm đủ ba điều ấy.

Phải là người lính đầy tự tin, dũng mãnh và phải là lớp trí thức mới mới viết được câu thơ Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Cảm nhận của ông trong "Lửa đèn" đầy những thị giác, thính giác, nhưng cảm nhận ấy còn được dẫn dắt bởi trí tuệ, nâng câu thơ lên tầm triết lý: Mạch đất ta dồi dào sức sống/ Nên nhành cây cũng thắp sáng quê hương; Nơi tắt lửa là nơi vang rền xe xích/ Kéo pháo lên trận địa đồng cao; Nơi tắt lửa là nơi dài tiếng hát/ Đoàn thanh niên xung phong phá đá sửa đường... Phạm Tiến Duật còn là người đưa cái bề bộn của cuộc sống thành những chất liệu thơ, đem sự chính xác của báo chí vào thơ: Từ trên trời bảy trăm mét/ Nhìn thấy lửa que diêm sáng mặt người/ Một nghìn mét từ trên trời/ Thấy ánh lửa đèn hàn chớp lóe.

Tác giả kể, kiến thức ấy là hoàn toàn chính xác, vì tác giả đã đọc và ghi vào sổ bài báo thông tin khoa học quân sự "ánh sáng mặt đất và độ cao phòng không" trên báo Nhân Dân. Hiệu quả nghệ thuật đạt được chính là, từ sự chính xác này, người đọc sẽ tin được sự chính xác của những kết luận mà nhà thơ đi tới sau đó. Những từ mà nhân dân, bộ đội ta hay dùng, Phạm Tiến Duật cũng đem vào thơ rất ngọt. Hơn thế, anh không ngại bộc lộ con người tự nhiên của mình khi nằm nghiêng, nằm ngửa ngắm trăng hay tranh thủ liếc nhìn các cô TNXP Tranh thủ có ánh sáng đèn dù/ Anh vội nhìn em và bạn em khắp lượt/ Mọi người cũng tò mò nhìn anh/ Rồi bóng tối lại khép vào bóng tối. Điều này các nhà thơ sách vở, các nhà thơ cổ điển không làm được. Các nhà thơ Đổi mới đem mọi từ vào thơ, nhưng không phải lúc nào cũng làm nên chất thơ. Đó là gì? Đó là cái riêng của Phạm Tiến Duật. Đó là vẻ đẹp tự nhiên, toàn bích của cuộc sống thời chống Mỹ. Mỗi chi tiết, tưởng như ngoài lề cũng được soi sáng, bảo đảm bằng vẻ đẹp lý tưởng. Dưới ánh trăng rằm, một lá cỏ cũng phát sáng. Anh lái xe trằn trọc trong mọi tư thế trên cánh võng, có thể nghĩ đến nhiều điều nhưng nhớ nhất vẫn là với những chuyến hàng lên phía trước, nên Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo. Những cô gái TNXP tinh nghịch càng làm tăng thêm vẻ đẹp của lứa tuổi và ý thức về sứ mệnh của họ: Bụi mù trời mùa hanh/Nước trắng khe mùa lũ/Đêm rộng đêm dài là đêm không ngủ/ Em vẫn đi, đường vẫn liền đường.

Đọc thơ Phạm Tiến Duật, lúc nào tôi cũng xao xuyến cảm động vì tình yêu thương con người của anh. Đó là thứ tình cảm bên trong, là cái sâu xa của tình đồng đội chứ không phải từ ngoài nhìn vào, từ trên nhìn xuống. Có khi ông nhờ hình ảnh Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm, Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều; có khi không nén được phải thốt lên nhiều lần Thương em, thương em, thương em biết mấy. Hay trong bài "Cô bộ đội ấy đã đi xa" Nhớ nhau, nhớ nhau những buổi mưa dầm/ Căn nhà dột tóc em ướt hết/ Anh ngồi nghĩ gì em chẳng biết/ Cứ hát tràn những câu hát bâng quơ. Nhưng không có tình thương ấy, không vì những cô gái ấy thì người ta đã không đi đánh giặc. Giặc thua ta là thua ở cái ý thức ấy, ở cái tình thương ấy.

Tôi cho Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây là bài thơ hay nhất của Phạm Tiến Duật và hay nhất của thơ chống Mỹ. Nó miêu tả chân thực khung cảnh chiến trường, không khí thời đại, tình đồng đội và cả điều sâu xa hơn thế. Nổi bật là cái ríu rít, quấn quýt của tình yêu. Đường ra trận bằng tình yêu, trong tình yêu không thể không là con đường chiến thắng! Mọi gian khổ, hiểm nguy sao mà nhẹ nhõm đến dường kia! Các nhân vật trong thơ, cái con người kỳ lạ thời đó không bao giờ nghĩ đến cái chết, chỉ nghĩ đến sự sống. Suy rộng ra, một dân tộc như thế không thể gì đè bẹp. Với Bộ đội Trường Sơn, bài thơ khi được phổ nhạc đã thành bài hát truyền thống. Ngày ấy người ta cần thơ như cần ăn, cần không khí để hít thở. Cả xã hội, đặc biệt là các đồng chí lãnh đạo rất quan tâm đến văn nghệ sĩ. Từ miền bắc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp điện cho Tướng Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh 559, phải chăm lo tốt cho Phạm Tiến Duật. Vì thế, là thượng sĩ nhưng anh được hưởng tiêu chuẩn như một thượng tá, có phòng riêng, có điện để ngồi sáng tác. Từ chiến trường ra, ông được rất nhiều Ủy viên Bộ Chính trị mời cơm. Riêng Thủ tướng Phạm Văn Đồng còn nói chuyện lâu với anh về nghề nghiệp. Ông nói: Văn nghệ không chỉ vì cái trước mắt. Còn phải nhìn xa hơn, con người hơn. Không chỉ là cuộc chiến đấu này, sư đoàn này, thời khắc lịch sử này mà là cả nhân quần, cả mai sau.

Thế đó, văn nghệ thời ấy đâu có cứng nhắc, đâu phải như ai cho rằng chỉ biết minh họa!

Vào năm 2003, ông tặng tôi tập sách "Vừa làm vừa nghĩ" do NXB Văn học ấn hành. Ở đó, ông bàn nhiều về thơ và nhiều ý kiến vô cùng xác đáng. Ông khẳng định sự thật thà, chân thành chính là cái gốc, cái bí mật của văn chương. Trong công cuộc đổi mới thơ "chộn rộn", ai cũng muốn riêng, muốn khác lạ; ông viết: "Thơ chỉ biết đến thơ mà không biết đến đời thì thơ thua xa một cái máy vi tính" (Vừa làm vừa nghĩ, tr. 59).

Đầu năm 2007, đọc bài thơ "Tân niên thán lão" (Năm mới than già) của tôi viết theo thể thất ngôn bát cú, ông gọi điện khen: "Anh Duật đãi chú một chầu bia và muốn bàn cùng chú đôi điều về thơ". Ông luôn như người thầy, người anh của chúng tôi. Cuối năm đó ông đi. Mới đó mà đã gần mười năm."Thời gian đi như một vệt sao dài", trong vệt sao ấy, hình ông càng ngày càng lớn dần trong nỗi nhớ của người thân, trong lịch sử văn học.

Lại nhớ câu thơ của ông Đốt lòng nhau cứ gì phải lửa/ Tiếng hát trong rừng bay xa, bay xa...

GS Lê Đình Kỵ từng nhận xét:

Thơ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có hai trường phái nổi bật: "Trường phái Chế Lan Viên là trường phái tìm cái đẹp từ bên trong ngưng đọng của lý trí; trường phái Phạm Tiến Duật tìm cái đẹp từ trong các diễn biến sôi động của cuộc sống".

Và con người nghệ sĩ bậc nhất ấy thường rất đúng hẹn về bài vở đối với các báo. Ông có tình cảm đặc biệt đối với tạp chí Văn nghệ Quân độivà Báo Nhân Dân , coi đó là ngôi nhà của mình. Một tình cảm và cũng là một lập trường.