Chị Eva

|

Chiều xứ Bắc Âu mới cuối thu nhưng khá lạnh. Chúng tôi quây quần uống trà với bánh quy gừng trong căn hộ treo như kín tranh các họa sĩ Việt Nam của nhà nghiên cứu văn hóa & dân tộc học Eva Lindskog ở thành phố Lidingö, Thụy Điển.

1/ Lidingö là một hòn đảo ở phía đông bắc thủ đô Stockholm. Thành phố Stockholm trải dài trên mười bốn hòn đảo lớn nhỏ, nơi hồ Mälaren chảy vào biển Baltic.

Bánh quy gừng hay còn gọi bánh Gingerbread có hình những con thú, trái tim, bông hoa… được người Thụy Điển làm trong dịp lễ Giáng sinh và thết đãi khách. Trên mặt chiếc bánh được phủ lớp bột nghệ và trang trí thêm vài hạt nho khô. Đĩa bánh được rắc lớp đường trắng bông tuyết. Chị Eva Lindskog mời tôi thưởng thức Gingerbread bằng chất giọng miền bắc nước Việt cực chuẩn âm sắc và giàu ngữ điệu: “Em nếm thử loại bánh này đi!”.

Chị còn mời khách bằng chất giọng Huế và giọng Sài Gòn, giảng cho tôi về sự khác biệt giữa các âm vực, ngữ điệu từng vùng trên nước Việt. Mùi bánh ấm áp cứ thế nhẹ nhàng lan tỏa khắp phòng.

2/ Tôi đến Thụy Điển lần này theo lời mời của Ủy ban Thụy Điển vì Việt Nam, Lào, Campuchia, do chị Eva Lindskog làm Chủ tịch, dự lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Ủy ban và tham gia một số hoạt động văn hóa. Kinh phí cho chuyến đi do phía bạn đài thọ. Từ đầu năm nay, 2018, chị Eva Lindskog đã thảo luận với dịch giả Mimmi Diệu Hường Bergström và nhà văn Styrbjörn Gustafsson - Giám đốc NXB Tranan. Các anh chị đã lên kế hoạch chi tiết từng ngày, từng sự kiện, đặt trước cho tôi phòng nghỉ tại khách sạn Queens Hotel ở phố Drottninggatanowr (71A. SE - 111 36 Stockholm). Đây là phố cổ dành cho người đi bộ nằm giữa trung tâm thủ đô Stcokholm. Trong chương trình kỷ niệm, nghệ sĩ kịch nghệ và điện ảnh Sofia Helin cùng tôi đọc một số bài thơ bằng tiếng Việt và tiếng Thụy Điển.

Thật đặc biệt! Đan xen chương trình có ban nhạc Thụy Điển “Ojzaioj” (phiên âm: Ối giời ơi) gồm các nghệ sĩ, Helena Berggren (đàn tranh), Sara Alkeby (đàn bầu), Olof Götlin (đàn nhị), Esbjörn Wettermark (sáo trúc), Pia Qvarnström (bộ gõ). Các nghệ sĩ Thụy Điển trình tấu các bài dân ca, chèo Việt Nam, như “Trống cơm”, “Lới lơ”, Sa lệch chênh”… và hát ca trù (đào nương Pia Qvanstrom). Ban nhạc “Ojzaioj” thường biểu diễn tại Học viện Âm nhạc Thụy Điển Malmö và trong các ngày văn hóa Việt Nam ở Bắc Âu.

3/ Ở Việt Nam nhiều người biết chị, thường gọi chị bằng tên thân mật: Chị Eva! Chị gắn bó với văn hóa và ngôn ngữ Việt rất sớm. Tháng 4-1974 chị Eva Lindskog là người phiên dịch cho cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong chuyến thăm chính thức Thụy Điển khi đó. Năm ấy chị Eva mới 27 tuổi. Tháng 3-1975, lần đầu tiên chị được Chính phủ Việt Nam mời sang thăm Hà Nội. Năm 1980, chị trở lại Việt Nam nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ, văn hóa và hệ thống giáo dục Việt Nam, đồng thời làm quản lý dự án nâng cao điều kiện sống cho công nhân Nhà máy giấy Bãi Bằng. Từ năm 1998, chị làm cố vấn cho Viện Môi trường Stockholm, thuộc Trung tâm Châu Á (Thụy Điển) về ảnh hưởng, phát triển của văn hóa và xã hội tại bốn nước, Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái-lan. Chị Eva có hơn 20 năm sinh sống gắn bó với Việt Nam, chia sẻ những vui buồn trên mảnh đất hình chữ S thời hậu chiến, nhất là những khó khăn cuộc sống trong thời bao cấp. Từ năm 2011, chị về Thụy Điển sinh sống với gia đình con gái, nhưng vẫn thường xuyên trở lại Việt Nam để thực hiện các dự án xóa đói, giảm nghèo của Liên minh châu Âu, tham gia các hoạt động văn hóa, giáo dục và nhân đạo.

4/ Trong thời gian ở Việt Nam, chị Eva còn là nghệ sĩ nhiếp ảnh có phong cách đặc biệt ấn tượng. Bằng chiếc máy ảnh Kodak chụp phim đen trắng, chị đã đến hầu khắp các tỉnh, thành phố Việt Nam, ghi lại cả kho tư liệu về đời sống và cảnh vật thời bao cấp. Những tấm ảnh sống động ấy của chị Eva đã phản ánh khá đầy đủ và chân thực về thời kỳ khó khăn nhưng chan chứa tình người ở Việt Nam. Những gánh hàng cơm trên vỉa hè Hà Nội, người bơm vá xe đạp ở góc phố, chú rể đón cô dâu trên chiếc xe đạp đã cũ, đèn giao thông dành cho người đi bộ vừa hiện mầu đỏ, vừa hiện mầu xanh, những chuyến xe điện chật ních người, học sinh tập trung chào cờ buổi sáng tại một trường học, cảnh tấp nập và huyên náo trước cửa chợ Đồng Xuân, Hà Nội… Trong số những hình ảnh sinh động mà chị Eva đã chụp được ở Việt Nam, bức ảnh cho tôi ấn tượng mạnh nhất là hình năm cô giáo Trường Dịch Vọng, Hà Nội đứng bên cạnh chiếc xe đạp có biển số. Bức ảnh này gợi cho tôi nhớ lại một thời cam go nhưng tràn đầy hy vọng và thơ mộng.

Chị Eva Lindskog đã cùng họa sĩ Lê Thiết Cương mở ba triển lãm ảnh về Việt Nam, “80.00” (2007), “Một Hà Nội khác” (2009) “Còn & mất” (2011). Những bức ảnh của Eva Lindskog không đơn thuần là sự ngưng tụ khoảnh khắc đời sống, sự cảm thông, chia sẻ của một nghệ sĩ Thụy Điển nặng lòng với nước Việt, mà cho người xem cảm nhận trọn vẹn từng cung bậc cảm xúc của người trong cuộc mỗi khi bấm máy. Ở đây, “người trong cuộc” Eva Lindskog đã hòa quyện tình cảm, tâm hồn mình vào lịch sử, cội nguồn văn hóa Việt Nam để tạo ra bản sắc sáng tạo riêng biệt, giàu tính nhân văn trong nghệ thuật nhiếp ảnh. Có một vài nhà chuyên môn nhận xét ảnh của nghệ sĩ Eva Lindskog từ góc độ kỹ thuật, như phối cảnh, bố cục, góc độ thu hình, giai điệu ánh sáng, các trường phái... Với tôi, những tấm ảnh của chị Eva đều là những khoảnh khắc hiếm gặp, độc đáo, được phản xạ bằng trực giác, cho người xem cảm nhận mối dây ràng buộc giữa cái tôi của người bấm máy với cái tổng thể lưu lại trong khung hình. Do vậy, mỗi tấm ảnh đen trắng của Eva Lindskog đều có sức hút kỳ lạ, kéo người xem trở về một thời khắc nghiệt và ấm áp, để mỗi người tự thấy mình, thấy đồng bào, dân tộc mình trong đó.

5/ Eva Lindskog đã dành trọn tình cảm, cuộc đời mình cho Việt Nam. Con gái chị tên là Maria Liên Lindskog. Tên của Maria Liên do chị đặt mang biểu tượng văn hóa hai nước Việt Nam và Thụy Điển. Chị diễn giải, “Liên” theo âm Hán Việt có nghĩa bông hoa sen. Ngay từ những ngày đầu đến Việt Nam chị Eva đã cảm nhận được vẻ đẹp, mùi hương, và đặc biệt cốt cách của loài hoa này quyến rũ. Sen là một loài hoa thanh khiết, có truyền thống lâu đời nhất ở phương Đông, gắn với văn hóa Phật giáo, là biểu tượng của sự cao cả, yêu thương, chia sẻ. Nói đến đây, chị cảm động đọc cho tôi nghe bài ca dao về sen bằng giọng trong trẻo của ngữ âm Hà Nội:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”

Rồi chị Eva cho tôi xem một bức ảnh đen trắng chụp chị cùng “bông sen” ba tuổi thật đáng yêu của chị bên những người bạn Việt Nam vào cuối mùa thu năm 1980. Hồi đó, hai mẹ con chị sống trong khu tập thể Trung Tự, Hà Nội. Tấm ảnh làm tôi nhớ lại những năm tháng khó khăn ấy. Sau tám năm quân ngũ, tôi đeo ba-lô về trường đại học. Sinh viên chúng tôi quen thuộc với cảnh “mượn” nhau từng mẩu xà-phòng giặt để tắm và cũng gội đầu, cảnh cơm gạo mục ăn không đủ no tại các bếp ăn tập thể... Năm 1982 chúng tôi được sang học chuyển tiếp tại thành phố Minsk (thủ đô nước Cộng hòa Belarus). Lúc ấy với lũ chúng tôi, nước Nga như một thiên đường.

6/ Chị Eva đã chuẩn bị xong các món ăn truyền thống của Thụy Điển để thết đãi khách. Chúng tôi hân hoan thưởng thức tài nghệ chế biến món ăn của chị, từ thịt tuần lộc hầm với quả bách xù, thịt viên kottbullar, bánh kẹp salad trứng cá cơm, bánh bao kanelbullar, cá trích muối, khoai tây nướng kiểu hasselback… đến pho mát cứng, bánh cuộn...

Chúng tôi cùng thưởng thức những ly rượu Akavavit đậm đà thơm ngon, có hương vị thật đặc biệt. Đây là loại rượu truyền thống được coi là biểu tượng của văn hóa Thụy Điển. Lúc ngấm hơi men tôi định hỏi thêm chị Eva về lý do chị chọn Việt Nam là quê hương thứ hai và cơ duyên nào giúp chị gắn bó với nước Việt lâu như vậy. Chị Eva bỗng tự tay rót một ly rượu mới để chúc riêng tôi và nói như đã đọc được ý nghĩ: Chị yêu Việt Nam lắm! Tôi uống cạn ly brandy trong niềm xúc động và không dám hỏi thêm điều gì nữa.

Lidingö, Thụy Điển, 18-10-2018