Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng cùng với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã trở thành yếu tố đầu vào quan trọng, là chìa khóa quyết định tốc độ và chất lượng phát triển của các quốc gia trên thế giới. Những đột phá công nghệ diễn ra nhanh chóng trong nhiều lĩnh vực, như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, cơ sở dữ liệu lớn, Internet kết nối vạn vật, robots, công nghệ in 3 chiều, công nghệ nano, công nghệ sinh học, lưu trữ năng lượng... đem đến sự thay đổi vượt bậc cho chất lượng cuộc sống, việc làm và sản xuất, kinh doanh. Cùng với đó, các mô hình kinh tế chia sẻ, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn mới nổi, có tiềm năng lớn góp phần định hình các nền kinh tế. Nhờ đó các ngành kinh tế cùng với nhiều sản phẩm mới xuất hiện ngày càng phong phú, đa dạng, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Xu hướng phát triển mới đã đưa nhân loại bước vào xã hội thông tin, trong đó thông tin trở thành nhân tố đặc biệt quan trọng trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội. Thực tế đó đã làm phát sinh nhu cầu thông tin của mọi đối tượng trong xã hội, từ Lãnh đạo các cấp, các ngành, các nhà nghiên cứu, giáo viên, học sinh, sinh viên, các cá nhân, tổ chức nước ngoài…
Đồng thời, sự phát triển của khoa học và công nghệ cùng với những thay đổi đang diễn ra nhanh chóng trên thế giới dẫn đến nhu cầu thông tin của con người cũng thay đổi theo hướng đa dạng hơn, tiện ích hơn, hướng đến các loại dữ liệu mới, với tần suất và mức độ chi tiết hơn để đáp ứng các vấn đề quan tâm hàng đầu của xã hội. Từ đó đặt ra yêu cầu đối với Cơ quan Thống kê các quốc gia là phải nâng cao trình độ nhân lực; nâng cấp trang thiết bị hiện đại, cải tiến chất lượng, quy trình sản xuất số liệu thống kê,... để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người dùng thông tin. Điều này không chỉ giúp tăng cường sự kết nối giữa các cá nhân và tổ chức, giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới mà còn giúp cho việc ra quyết định dựa trên bằng chứng dữ liệu của được thúc đẩy nhanh chóng, chính xác và hiệu quả.
Đồng thời, sự phát triển của khoa học và công nghệ cùng với những thay đổi đang diễn ra nhanh chóng trên thế giới dẫn đến nhu cầu thông tin của con người cũng thay đổi theo hướng đa dạng hơn, tiện ích hơn, hướng đến các loại dữ liệu mới, với tần suất và mức độ chi tiết hơn để đáp ứng các vấn đề quan tâm hàng đầu của xã hội. Từ đó đặt ra yêu cầu đối với Cơ quan Thống kê các quốc gia là phải nâng cao trình độ nhân lực; nâng cấp trang thiết bị hiện đại, cải tiến chất lượng, quy trình sản xuất số liệu thống kê,... để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người dùng thông tin. Điều này không chỉ giúp tăng cường sự kết nối giữa các cá nhân và tổ chức, giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới mà còn giúp cho việc ra quyết định dựa trên bằng chứng dữ liệu của được thúc đẩy nhanh chóng, chính xác và hiệu quả.
Nhu cầu của người dùng thông tin đang ngày càng cao
Lợi ích đối với Cơ quan Thống kê quốc gia trước bối cảnh mới
Cơ quan Thống kê quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất số liệu thống kê thông qua việc thu thập và phân tích dữ liệu, từ đó cung cấp thông tin cần thiết cho Chính phủ, doanh nghiệp và người dùng tin nói chung. Trong bối cảnh xu hướng thế giới thay đổi nhanh chóng, những lợi ích mà cơ quan Thống kê quốc gia nhận được là:
Thứ nhất, các cơ quan thống kê quốc gia hướng tới việc tối ưu hóa sản phẩm thống kê, dựa trên nhu cầu thông tin, nguồn dữ liệu và khả năng phản hồi của người dùng tin. Sự gia tăng các nguồn dữ liệu tiềm năng tạo ra cơ hội mới cho sản phẩm thống kê mới, chi tiết hơn, với tính kịp thời được cải thiện và chất lượng cao hơn.
Thứ hai, sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông cho phép các cơ quan thống kê tiếp cận và phân tích một lượng dữ liệu khổng lồ từ nhiều nguồn khác nhau, từ đó cung cấp các số liệu thống kê chi tiết, đa dạng phong phú và chính xác hơn. Cùng với đó, các cơ quan Thống kê quốc gia có thể thu thập và xử lý dữ liệu theo thời gian thực, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của người dùng tin. Điều này sẽ giúp cải thiện tính kịp thời của các báo cáo thống kê và nâng cao vị thế, uy tín của cơ quan Thống kê.
Thứ ba, trong bối cảnh mới, nhu cầu về thông tin thống kê tăng cao, do đó, cơ quan Thống kê phải đặt ra các chiến lược một cách bài bản để thực hiện các hoạt động thống kê nhằm đáp ứng nhu cầu người dùng tin tốt hơn. Cùng với sự phát triển của khoa công nghệ sẽ giúp Cơ quan Thống kê cung cấp dữ liệu phản ánh sát thực trạng kinh tế - xã hội cho Chính phủ, hỗ trợ Lãnh đạo các cấp, các ngành, các nhà hoạch định chính sách trong việc lập kế hoạch và ra quyết định.
Thứ tư, khả năng thích ứng của Cơ quan Thống kê tăng lên nhờ sự thay đổi nhanh chóng trong môi trường kinh tế và xã hội, đặt ra yêu cầu đối với Cơ quan Thống kê phải linh hoạt trong việc điều chỉnh các phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu. Trên cơ sở đó, năng lực tổ chức được nâng cao, cải thiện quy trình làm việc, tăng cường năng lực sản xuất số liệu thống kê và công nghệ thông tin.
Thứ năm, xu hướng phát triển mới sẽ thúc đẩy sự hợp tác giữa các cơ quan thống kê quốc gia và quốc tế, giúp chia sẻ kinh nghiệm, phương pháp và dữ liệu, từ đó nâng cao năng lực thống kê toàn cầu. Cơ quan Thống kê quốc gia sẽ được hưởng lợi nhiều từ hoạt động hợp tác quốc tế trong bối cảnh mới.
Có thể nói, sự phát triển của nhu cầu thống kê và sự thay đổi nhanh chóng mang lại nhiều cơ hội và lợi ích cho cơ quan Thống kê quốc gia, giúp cơ quan này thực hiện vai trò của mình một cách hiệu quả hơn.
Thách thức trước nhu cầu thống kê mới nổi và những thách thức của sự thay đổi nhanh chóng
Trong bối cảnh nhu cầu thông tin thống kê ngày càng tăng cao, thay đổi nhanh chóng, ngành Thống kê Việt Nam phải đối mặt với những thách thức như sau:
Một là, nhu cầu của người dùng tin ngày càng tăng: Người dùng tin có yêu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp về dữ liệu, số liệu thống kê, từ độ chính xác, kịp thời, đẩy đủ của dữ liệu cho đến khả năng phân tích theo thời gian thực, đặc biệt là nhu cầu dữ liệu lớn, dữ liệu từ các lĩnh vực mới nổi của nền kinh tế. Để đáp ứng những nhu cầu này, Cơ quan Thống kê phải cải tiến quy trình sản xuất số liệu thống kê, áp dụng khoa học công nghệ hiện đại, đầu tư lớn vào kỹ thuật và nhân lực chuyên môn.
Hai là, sử dụng dữ liệu hành chính cho mục đích thống kê đang trở thành xu thế chung trên toàn thế giới cũng như ở Việt Nam. Công tác thống kê hiện nay sẽ bị hạn chế và đối mặt với nhiều thách thức lớn, không bắt kịp xu thế nếu chỉ dựa trên hệ thống sản xuất số liệu thống kê hiện có từ các cuộc điều tra và chế độ báo cáo thống kê.
Sử dụng dữ liệu hành chính cho mục đích thống kê đang trở thành xu thế chung trên toàn thế giới
cũng như ở Việt Nam.
cũng như ở Việt Nam.
Ba là, khả năng thu thập, xử lý và đảm bảo chất lượng dữ liệu: Nhu cầu về dữ liệu lớn và chính xác đang gia tăng, nhưng hệ thống thu thập và xử lý dữ liệu hiện tại vẫn chưa đáp ứng kịp thời. Việc thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là dữ liệu không chính thức, vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Đảm bảo chất lượng và độ tin cậy của dữ liệu là một thách thức lớn do dữ liệu có thể bị thiên lệch hoặc không đầy đủ, ảnh hưởng đến kết quả phân tích và ban hành quyết định lập chính sách của Lãnh đạo các cấp, các ngành.
Bốn là, hạn chế về nguồn lực và ngân sách: Trong khi nhu cầu về dữ liệu và số liệu thống kê ngày càng tăng, Cơ quan Thống kê vẫn phải hoạt động với nguồn lực cơ sở vật chất, nhân lực và ngân sách hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện công việc.
Năm là, công tác phối hợp: Công tác Thống kê yêu cầu sự hợp tác chặt chẽ giữa các lĩnh vực khác nhau, như khoa học máy tính, kinh tế, xã hội học, nhưng sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, các đơn vị liên quan trong việc hợp tác vẫn còn hạn chế. Một số Bộ, ngành khi tổng hợp, biên soạn các chỉ tiêu được phân công liên quan đến bộ, ngành khác gặp khó khăn về nguồn thông tin. Tại Việt Nam, hiện còn trên 50% số bộ, ngành chưa ký quy chế phối hợp, chia sẻ thông tin với Tổng cục Thống kê.
Sáu là, tác động của công nghệ mới: Sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ như trí tuệ nhân tạo, học máy và dữ liệu lớn đặt ra những yêu cầu mới về kỹ năng và hạ tầng công nghệ. Các cơ quan thống kê cần liên tục đào tạo và nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác thống kê để có thể đáp ứng và vận dụng sự thay đổi công nghệ vào quá trình sản xuất số liệu thống kê.
Các thách thức này đòi hỏi Cơ quan Thống kê quốc gia phải có những giải pháp đổi mới và thích ứng kịp thời để nâng cao hiệu quả và độ tin cậy của dữ liệu thống kê.
Chiến lược và giải pháp của Tổng cục Thống kê Việt Nam trước những yêu cầu thống kê mới nổi và thách thức của sự thay đổi nhanh chóng
Những năm qua, ngành Thống kê Việt Nam đã khẳng định được vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin thống kê phục vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp nhằm đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của các tổ chức, cá nhân. Những thông tin thống kê do Tổng cục Thống kê công bố, cung cấp là nguồn thông tin chính thống, có tính pháp lý, được các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế tin cậy, sử dụng.
Trước những nhu cầu thống kê mới nổi và bối cảnh thay đổi nhanh chóng, Thống kê Việt Nam đặt chiến lược: Hiện đại hóa Thống kê Việt Nam theo hướng đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và vững chắc với hệ thống tổ chức phù hợp; nguồn nhân lực chất lượng cao và chuyên nghiệp; công nghệ hiện đại; sản xuất, cung cấp và phổ biến thông tin thống kê theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế; hình thành hệ thống thông tin thống kê quốc gia tập trung, thống nhất, thông suốt, chất lượng và hiệu quả; đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin thống kê ngày càng tăng.
Để thực hiện chiến lược đó, Tổng cục Thống kê Việt Nam đã đặt ra một số giải pháp phù hợp với bối cảnh mới. Trong những năm vừa qua, ngành Thống kê đã có bước phát triển trong việc cung cấp thông tin thống kê đáp ứng yêu cầu đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch, quy hoạch chính sách, quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã hội; yêu cầu kiểm tra, giám sát việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội cũng như đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sử dụng thông tin thống kê của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các Cơ quan Thống kê là nâng cao nhận thức của người làm công tác thống kê trong việc quản lý và khai thác dữ liệu cùng với việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là xây dựng, quản lý và sử dụng các cơ sở dữ liệu thống kê từ nguồn dữ liệu điều tra, tổng điều tra và bước đầu sử dụng dữ liệu hành chính trong hoạt động thống kê.
Ngày 01/12/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2014/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển Thống kê Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, đặt ra mục tiêu “hiện đại hóa Thống kê Việt Nam theo hướng đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và vững chắc với hệ thống tổ chức phù hợp; nguồn nhân lực chất lượng cao và chuyên nghiệp; công nghệ hiện đại; sản xuất, cung cấp và phổ biến thông tin thống kê theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế; hình thành hệ thống thông tin thống kê quốc gia tập trung, thống nhất, thông suốt, chất lượng và hiệu quả; đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin thống kê ngày càng tăng. Phấn đấu đến năm 2030, Thống kê Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực ASEAN và đến năm 2045 trở thành hệ thống thống kê hiện đại trên thế giới”. Việt Nam là một trong số ít các quốc gia đã đã lập kế hoạch xây dựng Chiến lược phát triển thống kê giai đoạn tiếp theo ngay sau khi Chiến lược phát triển thống kê lần 1 giai đoạn 2011-2020 kết thúc.
Một số nhiệm vụ, giải pháp của Tổng cục Thống kê cần thực hiện để thích ứng với bối cảnh mới là:
Một là, xây dựng, hoàn thiện, ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn, quy trình, mô hình thống kê: Xây dựng, hoàn thiện và ban hành đồng bộ các tiêu chuẩn thống kê, các quy trình sản xuất thông tin thống kê phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế và điều kiện thực tế của Việt Nam.
Hai là, hiện đại hóa hoạt động thu thập, xử lý và quản trị dữ liệu: Tăng cường áp dụng phương pháp luận tiên tiến, hiện đại; đa dạng hóa hình thức và ứng dụng tối đa công nghệ thông tin trong hoạt động thu thập, xử lý dữ liệu thống kê. Ưu tiên sử dụng dữ liệu hành chính, dữ liệu sẵn có của các cơ quan quản lý nhà nước cho hoạt động thống kê; đổi mới mạnh mẽ thiết kế điều tra và tổng điều tra thống kê theo hướng tích hợp các cuộc điều tra và ứng dụng tối đa công nghệ thông tin trong tất cả các bước của quy trình điều tra; đẩy mạnh ứng dụng khoa học thống kê, khoa học dữ liệu để khai thác nguồn dữ liệu lớn, dữ liệu mới cho hoạt động thống kê.
Ba là, đẩy nhanh tư liệu hóa, chuyển đổi số trong công tác thống kê: Nghiên cứu, đề xuất xây dựng sửa đổi quy chế, chính sách về công nghệ thông tin để đảm bảo thực hiện tư liệu hóa và chuyển đổi số trong công tác thống kê. Xây dựng cơ sở hạ tầng tạo nền tảng chuyển đổi số trong công tác thống kê; tập trung nghiên cứu, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, internet vạn vật, chuỗi khối... vào công tác thống kê. Thực hiện thường xuyên, liên tục việc ghi chép, ghi nhận hoạt động trong lĩnh vực thống kê theo các quy trình sản xuất thông tin thống kê và hoạt động quản lý, điều hành; chuẩn hóa, số hóa, lưu trữ và quản lý trên không gian mạng.
Bốn là, mở rộng, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế, thống kê nước ngoài trong công tác thống kê: Duy trì quan hệ hợp tác với các cơ quan thống kê, tổ chức quốc tế, đối tác phát triển; tăng cường hợp tác song phương, đa phương với các quốc gia có trình độ thống kê phát triển. Nâng cao chất lượng công tác thống kê nước ngoài, đảm bảo so sánh quốc tế; tăng cường thu thập, biên soạn và phổ biến thông tin thống kê đáp ứng tối đa nhu cầu của mọi đối tượng sử dụng thông tin thống kê trong và ngoài nước. Tăng cường huy động, sử dụng hiệu quả hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ các quốc gia và các tổ chức quốc tế cho việc thực hiện Chiến lược phát triển thống kê.
Năm là, phát triển nguồn nhân lực thích ứng với yêu cầu mới: Phát triển, thu hút, trọng dụng nhân lực trình độ cao, chuyên nghiệp; tăng cường huy động và sử dụng các chuyên gia, nhà khoa học về khoa học thống kê, khoa học dữ liệu, công nghệ thông tin; ưu tiên sử dụng nhân lực tại chỗ đối với các vùng khó khăn. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nhân lực theo hướng nâng cấp hệ thống đào tạo, chương trình, nội dung, hình thức, cấp độ đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu các cấp, các ngành, địa phương. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu khoa học thống kê và khoa học dữ liệu. Tăng cường hợp tác, liên kết trong công tác đào tạo, bồi dưỡng./.
Trần Thị Thu
Phó Vụ trưởng Vụ Thống kê Tổng hợp và Phổ biến thông tin thống kê
Phó Vụ trưởng Vụ Thống kê Tổng hợp và Phổ biến thông tin thống kê